Lần cập nhật gần nhất November 7th, 2021 - 05:48 pm
“Châu Á vận hành như thế nào?” tập trung vào phân tích mức độ đúng sai của các chiến lược, chính sách kinh tế khác nhau giữa hai nhóm nước. Tác giả chỉ ra rằng thành công hay thất bại của một quốc gia tùy thuộc chủ yếu vào năng lực và hiệu quả chỉ đạo của người cầm quyền của mỗi quốc gia, một yếu tố hoàn toàn mang tính chất chủ động. Joe Studwell đúc kết lại có ba nhóm chính sách quan trọng nhất đã tạo ra khác biệt giữa thành công Đông Bắc Á và thất bại Đông Nam Á.
Bill Gates xếp cuốn sách vào một trong năm cuốn sách gối đầu trong năm của ông (2014) và tác phẩm đạt giải “Sách hay nhất năm” do tờ Economist bình chọn (2014)
Review (2)
“Có bao giờ bạn tự đặt ra câu hỏi rằng tại sao nước này lại phát triển và tại sao nước kia lại lạc hậu? Tại sao cùng chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh mà nước này thì mạnh mẽ vươn lên còn nước kia mãi vẫn chưa thể vượt qua? Tại sao nước này hạn chế về điều kiện tự nhiên thì lại giàu có còn nước kia dồi dào tài nguyên thì lại nghèo nàn?”
Tôi chọn mua cuốn sách “Châu Á vận hành như thế nào?” cũng vì lời giới thiệu này và vì nó nằm trong những cuốn sách mà Bill Gates đã chọn.
Vụ việc đáng thương vừa qua càng làm tôi mong muốn được hiểu rõ hơn về những gì đang vận hành và điều khiền nền kinh tế, chính trị ở các nước châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Từ nhỏ, khi chăn bò ngoài ruộng, tôi luôn thắc mắc không biết vì sao những đứa trẻ nông thôn như tôi phải chịu cực chịu khổ. Nhưng trong lúc đó cũng có những cậu ấm cô chiu sinh ra đã ngậm thìa vàng, sống trong điều kiện phủ phê.
Thomas Jefferson từng nói: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa đã ban cho họ quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Nhưng có thật tất cả mọi người đều bình đẳng?
Hay chỉ đơn giản như George Orwell trong cuốn Trại xúc vật: “Tất cả các con vật đều bình đẳng với nhau, nhưng có một số con thì bình đẳng hơn những con còn lại”?
Không biết đọc xong cuốn sách này có thể trả lời được những thắc mắc đó không, nhưng hy vọng là có thể trả lời được một phần nào đó.
– Ánh Tuyết (Sài Gòn, ngày 28/10/2019)
Những độc giả luống tuổi hẳn sẽ nhớ thời điểm nước Nhật “chia miếng bánh” với cả thế giới. Ngày nay, chúng ta chuẩn bị sẵn sàng cho “Thế kỉ Trung Hoa”, trong lúc nhắc đến một cách đầy tôn trọng đối với bán đảo Triều Tiên bị xé lẻ mỗi khi chúng ta mua một chiếc điện thoại Samsung hoặc một chiếc xe Hyundai. Sự thành công của những quốc gia được gọi là con Hổ kinh tế ấy, bao gồm cả Đài Loan, gây hứng thú cho những nhà kinh tế học và các nhà hoạch định chính sách.
Joe Studwell đã giải thích một cách súc tích về phép màu của Châu Á trong cuốn “Châu Á vận hành như thế nào?” và cuốn sách của ông tình cờ lại giống như một trình tự: tạo ra một nền kinh tế kì diệu của từng quốc gia với chỉ ba bước. Đầu tiên, cải cách quyền sở hữu đất nông nghiệp để khuyến khích các trang trại nhỏ có năng suất cao. Tiếp đến, thực hiện các chính sách công nghiệp để nuôi dưỡng các ngành công nghiệp non trẻ và áp đặt kỷ luật đối với các nhà xuất khẩu nhằm thúc đẩy quá trình cạnh tranh bằng cách yêu cầu các công ty xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài, nơi họ phải đối mặt với cạnh tranh khốc liệt hơn. Cuối cùng, triển khai hệ thống tài chính nhằm hỗ trợ cho quá trình thứ nhất và thứ hai, kiểm soát dòng vốn cho các nhà xuất khẩu.
Ông Studwell, tác giả của cuốn sách “Bố già châu Á”- về những ông trùm mới của lục địa, đã đưa ra một cuộc khảo sát về các chính sách tăng trưởng mà các con Hổ kinh tế theo đuổi và cũng đưa ra một số phân tích hữu ích về lý do tại sao các chiến lược tương tự lại thất bại ở Đông Nam Á. Ông đã nhắc đến (một cách đầy chính xác) rằng các nhà lãnh đạo ở đó chưa từng có đủ quyết tâm chính trị để áp đặt những chính sách khắc nghiệt như vậy. Nếu ông ấy dừng lại ở đây, hẳn nó sẽ là một cuốn sách dùng được dù không đầy đủ. Nhưng tham vọng của ông là ngầm phá hoại “các nền kinh tế tăng trưởng tân cổ điển” bằng cách chứng minh rằng các chính sách hiếu chiến của những con Hổ kinh tế hiệu quả hơn đối với sự phát triển. Đây là một sự hiểu lầm nghiêm trọng trong câu chuyện liên quan đến Châu Á.
Một điểm nữa, các chính sách mà ông Studwell khen ngợi tốn kém hơn nhiều so với những gì ông thừa nhận. Ông đã che đậy hàng trăm ngàn hoặc thậm chí hàng triệu người Hoa đã chết vì sự phân bố lại đất đại trước cuộc “Đại nhảy vọt”. Ông Studwell cũng đánh giá thấp việc hình thành vốn bằng cách cải cách ruộng đất. Chẳng hạn, ông trình bày đầy đủ rằng theo luật của Nhật Bản trước năm 1945, Đài Loan đã được đầu tư đáng kể vào các công nghệ tăng năng suất ở nông thôn. Tuy nhiên, ông dường như thiếu tò mò một cách kì lạ về lý do tại sao các chế độ đất đai trước đây lại gặp nhiều trở ngại trong đầu tư vào nông nghiệp. Cuộc điều tra có lẽ đã đưa ra các thay thế ít quyết liệt hơn hơn so với những chính sách mà các con Hổ kinh tế theo sát. Các loại thuế nông nghiệp nặng nề và việc bảo vệ các quyền tài sản hay bị đổ lỗi cho sự tích lũy vốn nghèo nàn ở nông thôn.
Tương tự như vậy, ông cũng giảm chi phí của quá trình cải cách công nghiệp và tài chính theo phong cách của những con Hổ kinh tế. Ở đây, nguyên tắc cơ bản đơn giản hơn so với những gì Studwell đưa ra, đó là: buộc mọi người phải trả nhiều hơn cho mọi thứ. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa bảo hộ nhập khẩu và đàn áp tài chính đã tạo ra sự chuyển đổi tài sản bền vững từ các hộ gia đình sang các công ty xuất khẩu nhằm tạo điều kiện cho đầu tư. Điều này không thể phủ nhận rằng nó sẽ dẫn đến tăng trưởng GDP nhanh, ít nhất là cho một thần chú. Nhưng có công bằng không khi bảo các công dân nghèo ở các quốc gia có thu nhập thấp hy sinh mức tiêu dùng ưa thích của họ vào hôm nay cho mức độ tăng trưởng “tối ưu” vào ngày mai? Có thể sẽ tốt hơn không nếu mở cửa với hàng nhập khẩu để các công dân được hưởng lợi từ kết quả cạnh tranh?
Các quốc gia Châu Á đang trả lời những câu hỏi này của chính họ. Tại Hàn Quốc, “dân chủ hóa kinh tế” bây giờ là một thuật ngữ thông dụng, cách tốt nhất của nó là loại bỏ các hỗ trợ công nghiệp cho các nhà xuất khẩu nhằm tạo ra một thị trường nội địa cạnh tranh hơn. Tại Nhật, nhiều cuộc cải cách của thủ tướng Shinzo Abe – chẳng hạn như tham gia các cuộc đàm phán thương mại xuyên Thái Bình Dương để giảm bớt các rào cản đối với hàng nhập khẩu sẽ làm giảm giá tiêu dùng và thúc đẩy cạnh tranh ở trong nước. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nói rằng họ tìm kiếm điều tương tự dù ý chí của họ thật đáng ngờ.
Trong khi đó, các quốc gia như Indonesia và Philippines đang trải qua thời kỳ tăng trưởng mạnh, chủ yếu bởi tiêu dùng trong nước, và Ấn Độ vẫn tiếp tục tự do hoá với các hiệu ứng tương tự. Thương mại tự do đóng một vai trò quan trọng trong câu chuyện phát triển của châu Á. Nhưng như ông Studwell chỉ rõ, chủ nghĩa tự do thực sự đã không bao giờ được nỗ lực bởi bất kỳ quốc gia nào trong khu vực. Trước khi kết luận rằng con đường của những con hổ, với cái giá của nó, là con đường tốt nhất cho châu Á. Có lẽ đáng để chúng ta chờ đợi kết quả của cuộc thí nghiệm về sự một sự thay thế nào đó tự do hơn mới chỉ bắt đầu.