Thông qua “Nhà Thờ Đức Bà Paris”, Victor Hugo đã khắc họa cái nhìn mới về cuộc sống, về văn học nghệ thuật, ông đã thay thế những trật tự, sự quân bình của khuynh hướng cổ điển bằng những điều phóng túng, vô trật tự, thiếu quân bình trong cuộc sống thời đại mình. Khiến tác phẩm trở nên quyến rũ hơn trong mắt người đọc, mở ra trong lòng họ những sự thức tỉnh mới, giàu ý nghĩa nhân sinh, và ở tận cùng của chiều sâu tư tưởng, người đọc còn bắt gặp, lắng nghe được tiếng kêu tha thiết về thân phận con người, về sự đấu tranh không ngừng và cả nỗi đau tột cùng của con người trước số phận, mỗi nhân vật là một sự hài hước bi đát.
Review Nhà thờ Đức Bà Paris
Thằng gù nhà thờ Đức bà (Nhà thờ đức bà Paris) đã được viết cách đây gần 200 năm và đến nay vẫn không ngớt người tìm đọc. Cuốn tiểu thuyết làm sống lại toàn cảnh Paris thời kỳ trung cổ ở thế kỉ XV, thời kì cách chúng ta cả 600 năm. Đây là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú dựa trên các tài liệu dày công nghiên cứu của tác giả.
Với ngòi bút điêu luyện, tinh xảo, tác giả đã tái hiện lại toàn cảnh nhà thờ Đức Bà Paris những năm thế kỉ XV. Đó là một tòa nhà của thời kì quá độ từ kiến trúc Roman sang Gô tích, “một di tích khổng lồ”. Ở nhà thờ Đức bà, các kiểu kiến trúc được lai tạp, hòa hợp tạo nên một sự dị biệt, độc đáo, hấp dẫn các nhà sử học, những nghệ sĩ và những người nghiên cứu các công trình cổ. “Tòa nhà thờ trung tâm đầy sinh lực này là một quái vật thần thoại giữa bao nhà thờ cổ của Paris; đầu nó thuộc cái này, chân tay thuộc cái kia, mông thuộc cái nọ, gần như thuộc của mọi cái”. Đúng như nhà sử học Giuyn Misơlê nhận xét vào năm 1833: “Cạnh ngôi nhà thờ cổ kính, V.Hugo xây dựng một tòa nhà thờ lớn khác bằng thi ca, cũng vững chắc như nền móng, cũng ngất cao như dãy tháp của tòa nhà thờ nọ”. Thông qua Thằng gù nhà thờ Đức bà, tác giả lên án sự tàn phá của con người với những công trình nghệ thuật thời trung cổ. Không phải thời gian tàn phá chúng mà chính con người đã tàn phá chúng không thương tiếc.
Với ngòi bút hóm hỉnh mà không kém phần sâu sắc, những cảm xúc tưởng chừng như chỉ có thể cảm nhận mà khó nói thành lời đều được tác giả diễn đạt dễ dàng bằng ngôn từ, bằng những hình ảnh ví von, liên tưởng hết sức thú vị: “…như có bàn tay vô hình cất đi khối nặng từ lâu vẫn đè nén giọt lệ trong tim, cô òa khóc; và nước mắt càng tuôn chảy, cô càng thấy nó cuốn đi mọi cay đắng và chua chát nhất của đau khổ.”; thứ cảm xúc bị dồn nén được diễn tả bằng thứ ngôn từ hoa mĩ, tráng lệ mà vô cùng sâu sắc khiến người đọc cảm thấy những dòng cảm xúc đó như cũng đang chảy trong huyết quản: “…chàng đâu có biết biển cả ham mê của con người sẽ nung nấu và sôi sục cuồng điên đến độ nào khi ta cự tuyệt nó mọi lối thoát, biển cả đó tích tụ, dâng lên, tràn bờ, đào xới tâm can, bật thành nức nở bên trong và quằn quại âm thầm, tới khi biển phá vỡ đê, chảy lạc dòng…”. Những lời lẽ ấy đẹp đẽ nhưng tiềm tàng một thứ cảm xúc tiêu cực đến tuyệt vọng.
Trong truyện có nhiều đoạn mang tính triết lý nhân sinh rất thú vị, ví dụ như: “Chao ôi! Frollo, mi là con nhện, Frollo, mi cũng là con ruồi! – Mi bay tới khoa học, tới ánh sáng, tới mặt trời, mi chỉ lo sao tới được khoảng rộng, tới ánh sáng rực rỡ của sự thật muôn đời; nhưng trong khi lao vào khung cửa sổ chói lọi mở sang thế giới bên kia, thế giới của ánh sáng, trí tuệ và khoa học, hỡi con ruồi mù quáng, nhà bác học điên rồ, mi đã không trông thấy cái mạng nhện tinh vi do số mệnh giăng ra giữa mi và ánh sáng, mi liều lĩnh đâm đầu vào, hỡi gã điên khốn khổ, và bây giờ thì mi giãy giụa, vỡ đầu xẻ cánh, giữa những vòi sắt của định mệnh!”
Ở thằng gù Nhà thờ Đức bà, các nhân vật được V.Hugo xây dựng đều mang tính chất điển hình.
Frollo là một phó giám mục uyên bác, thông thái, một linh mục cứng rắn, một con người buồn bã. Cha mẹ mất sớm, Frollo giành hết tình yêu thương chăm chút cho chú em. Nhưng chú em lại đối lập hẳn với anh, lười biếng, ngu dốt và đàng điếm. “Frollo vùi đầu vào tìm hiểu kiến thức nhân loại, lần lượt nếm mọi trái táo trên cầu trí tuệ, rồi cuối cùng cắn cả vào trái cấm, chẳng hiểu vì đói hay vì chán ngán”. Frollo đã nhận nuôi đứa trẻ quái dị, vô thừa nhận và đặt tên nó là Quasimodo.Quasimodo có vẻ ngoài xấu xí, dường như mọi điểm xấu trên đời tác giả đều đem đặt hết vào anh ta, chân khoèo, lưng gù, mặt chột, tai điếc nhưng có một trái tim tận tuỵ và khi yêu, nó trở lên đẹp đẽ, vĩ đại biết nhường nào.
Một kẻ tài năng đến nỗi bị coi là phù thủy. Một kẻ xấu xí đến nỗi bị gọi là quỷ sứ. Một chủ, một tớ gắn kết keo sơn. Một người ban cho người kia sự sống, dang tay cứu giúp một đứa trẻ vô thừa nhận và hình thù quái dị, nuôi nấng, che chở, dạy dỗ, chẳng khác nào một người cha. Một người rất mực trung thành với người kia bởi lòng biết ơn sâu sắc. Hai con người kì lạ ấy đã trở thành linh hồn của nhà thờ nọ, khiến nhà thờ kì lạ ấy càng thêm bí hiểm.
Phoebus có một diện mạo đẹp đẽ nhưng lại chẳng có một trái tim yêu thương đúng nghĩa. Thứ anh ta có chỉ là những ham muốn cho bản thân. Những ham muốn đó điều khiển anh ta. Những thứ đẹp đẽ mà được bọc bên ngoài bởi cái xấu xa thì không có cơ hội để toả sáng. Những thứ xấu xa được che đậy dưới vẻ đẹp bề ngoài lại dễ dàng đánh lừa người ta.
Ba nhân vật đối diện với một cô gái. Esmeralda xinh đẹp như một thiên thần, đôi chân nhảy múa và giọng hát đều mê hoặc lòng người. Cô gái khiến đàn ông phải mê mẩn, đàn bà phải ghen tị. Cô yêu hết mình một cách ngây thơ, yêu bằng một tâm hồn trong sáng, nhưng tiếc là trái tim lại trao nhầm người.
Ngoài ra tôi vẫn muốn kể đến Gringoire với câu nói: “Thoạt tiên tôi yêu đàn bà, rồi yêu súc vật, giờ đến gạch đá. Yêu gạch đá cũng thú vị như yêu đàn bà và sức vật mà còn bớt bất trắc hơn”. Đây hẳn là một câu nói thật lòng của một người đam mê kiến trúc. Thú thực, cái anh chàng này cũng lầy lội lắm các bạn ạ. Cái khiếu hài hước của tác giả có lẽ truyền cả cho Gringoire này!
Nếu xét về khía cạnh tình yêu thì Thằng gù nhà thờ Đức Bà có thể đặt thêm cái tên là Khi người ta yêu đơn phương.
Đơn phương như Frollo, một thứ tình yêu đoạ đầy, khổ sở và vật vã, một thứ tình yêu độc tài: “Không cần biết em có yêu ta hay không, ta chỉ biết ta yêu em điên dại và em phải là của ta hoặc không là của ai cả! Em phải là của ta hoặc là chết!”. Thứ tình yêu đó không chỉ dừng lại trong suy nghĩ mà còn biến thành hành động đê tiện, bẩn thỉu khiến Esmeralda đã phải thốt lên: “Tình yêu kiểu gì mà kì lạ thế?!” Tình yêu ích kỉ và thù hận đã khiến một cô gái hoạt bát, vô tư, tươi cười, đỏm dáng, nhảy nhót, bay bổng, nhịp nhàng trở thành một kẻ tử tù xanh xao, ủ rũ nhưng vẫn đẹp đẽ; nó cũng biến một linh mục ngoan đạo, mẫu mực thành một tên đồ tể độc ác, điên rồ. Anh ta làm mọi cách để có được người anh ta yêu mà không biết rằng điều đó chỉ càng làm cho cô gái ghê sợ và chạy trốn khỏi anh ta.
Đơn phương như Quasimodo, luôn âm thầm và lặng lẽ, làm mọi điều cốt sao người anh ta yêu được hạnh phúc, kể cả việc rời xa họ, luôn ở bên khi họ cần một bàn tay che chở, sẵn sàng mang cả tính mạng mình ra để bảo vệ cho người mình yêu. Cả thế giới thu bé chỉ vừa bằng một cô gái, cô là niềm tin, là tình yêu, là sự sống của anh ta. Không có cô, anh ta chỉ còn là tro bụi. Bạn đọc chắc hẳn sẽ nghẹn ngào xót thương cho một tình yêu như thế.
Đơn phương như Esmeralda, yêu mù quáng và mãnh liệt, tha thứ hết mọi lỗi lầm của người mình yêu để được ở bên người ấy, cứ ngỡ người ta cũng yêu mình. Cô cứ đi theo tiếng gọi của trái tim, đi theo giọng nói của Phoebus để rồi bước lên đài treo cổ mà vẫn không biết được rằng với anh ta cô chẳng là gì cả. Anh chàng Phoebus thì ai cũng yêu và chẳng thực sự yêu ai.
Sự lựa chọn sai lầm và mù quáng sẽ phải trả một cái giá đắt. Esmeralda chọn sai người để yêu khiến chính cô và người yêu cô chân thành phải nhận lấy sự đau khổ tột cùng. Tấm chân tình nếu được bọc bằng một lớp vỏ quá xấu xí thì cũng sẽ bị lu mờ, khiến người ta không thể nhìn thấy, càng không thể chạm tới.
Thủ pháp tương phản làm nền cho chuyện tình của họ. V.Hugo đặt cái xấu cùng cực cạnh cái đẹp tuyệt mĩ, đặt cái trong sáng, thánh thiện đến ngây thơ cạnh cái độc ác xấu xa đến tàn nhẫn làm cho tất cả tự nó nổi bật lên, tạo dấu ấn riêng cho tác phẩm. Khi nói về thủ pháp tương phản V.Hugo đã từng nói: “Nghệ thuật hiện đại sẽ thấy không chỉ mọi vật trong thế giới đều là cái đẹp, phù hợp với lòng người mà sẽ cảm thấy cái xấu bên cạnh cái đẹp, cái dị dạng bên cạnh cái xinh xắn, cái thô tục được che giấu đằng sau cái cao cả, cái ác tồn tại sau cái thiện, đen tối và ánh sáng trộn lẫn vào nhau”. Những thứ đối lập nhau lại có sức hút kì lạ với nhau, giống như hai đầu nam châm trái dấu vậy.
Ngoài những phần miêu tả kiến trúc, toàn bộ diễn biến câu chuyện đều đi ra từ suy nghĩ của các nhân vật. Mỗi người đều theo đuổi suy nghĩ của riêng mình và hành động như thể tin chắc điều đó là đúng. Tình yêu của họ chỉ bắt đầu từ ánh nhìn hoặc một cử chỉ đã khiến họ cả đời mong nhớ, cả đời si mê mà lại si mê đến cuồng điên. Sai lầm nỗi tiếp sai lầm tạo nên một bi kịch đau thương đến tàn nhẫn. Phải chăng, yêu hay không yêu ai đã là “định mệnh” không thể thay đổi?!
Nhà thơ Xuân Diệu viết bài Dại Khờ như thể viết cho Esmeralda vậy:
“Người ta khổ vì thương không phải cách,
Yêu sai duyên, và mến chẳng nhằm người.
Có kho vàng nhưng tặng chẳng tuỳ nơi,
Người ta khổ vì xin không phải chỗ.
Đường êm quá, ai đi mà nhớ ngó!
Đến khi hay, gai nhọn đã vào xương.
Vì thả lòng không kìm chế dây cương,
Người ta khổ vì lui không được nữa.
Những mắt cạn cũng cho rằng sâu chứa;
Những tim không mà tưởng tượng tràn đầy;
Muôn ngàn đời tìm cớ dõi sương mây,
Dấn thân mãi để kiếm trời dưới đất.
Người ta khổ vì cố chen ngõ chật,
Cửa đóng bưng nên càng quyết xông vào.
Rồi bị thương, người ta giữ gươm dao,
Không muốn chữa, không muốn lành thú độc.”Điểm trừ của cuốn sách trong hình, đó là tên các nhân vật được phiên âm ra tiếng Việt. Để viết review này mình phải hỏi anh google về tên các nhân vật để viết được như ở trên.
Lối kể truyện của tác giả chậm rãi nhưng không khiến người đọc thấy buồn ngủ hay chán nản mà ngược lại, vô cùng hứng thú bởi ngôn từ tinh xảo, hài hước , tỉ mỉ nhưng không lan man.
“Thằng gù Nhà thờ Đức bà Paris quả thực là một kiệt tác của loại tiểu thuyết lịch sử thời kỳ lãng mạn chủ nghĩa” – Dịch giả Nhị Ca
Tóm tắt Nhà thờ Đức Bà Paris
Một buổi sáng năm 1467, một đứa trẻ bị nhốt trong một cái túi, đầu thò ra ngoài với cái đầu ấy khá dị dạng. Chỉ thấy một đám tóc hung, một con mắt, cái mồm và những cái răng. Mắt ướt nhoèn nước mắt. Mồm kêu gào. Răng thì như muốn cắn ai. Không một ai muốn nhận nuôi đứa trẻ, duy nhất chỉ có phó giám mục. Nó tên Quasimodo. Lớn lên Quasimodo càng béo mập, hung hăng, sừng sộ, gầm ghè như một con thú dữ. Quasimodo không giao tiếp với mọi người trừ phó giám mục. Hắn ta làm công việc hàng ngày là kéo chuông cho nhà thờ Đức Bà Paris.
Esmeralda – một cô gái bô-hê-miêng. Cô không cao lớn, nhưng trông dường như cao lớn, do thân hình mảnh mai cao dong dỏng vươn thẳng của cô. Nước da cô bánh mật. Bàn chân nhỏ nhắn gọn gàng, thoải mái trong đôi giày xinh xinh. Cô xuất hiện với hình ảnh đang nhảy, lượn vòng, xoay tít trên tấm thảm Ba Tư cũ, trải cẩu thả dưới chân cô. Mỗi khi lượn trước khán giả, cô phóng vào họ tia chớp của cặp mắt to đen láy. Xung quanh cô, mọi cặp mắt đều chăm chú, mọi cái miệng hé mở, trong lúc cô nhảy theo nhịp trống rộn ràng. Đôi tay nâng cao trên đầu, mảnh mai, mềm mại, sống động như một con ong bầu. Bộ đồ lót óng ánh vàng. Cái váy sặc sỡ phồng lên. Mái tóc huyền. Theo cô là một con dê nhỏ, lông trắng tiến ra, nhanh nhẹn, linh hoạt, bóng láng. Nó có cặp sừng vàng. Cẳng chân vàng. Vòng cổ vàng. – Tên Djali.
Truyện lấy bối cảnh Paris năm 1482 dưới chế độ vua chúa khắc nghiệt bất công tột độ. Cô gái tuyệt đẹp Esméralda làm say đắm mọi người, trong đó có cả giáo sĩ Frollo và người con nuôi đáng thương của ông ta là người gù xấu xí Quasimodo. Nhưng chính viên sĩ quan triều đình Pheobus, dù sắp lấy vợ, đã dụ dỗ được Esméralda. Giáo sĩ Frollo nổi ghen ám hại tình địch, rồi đổ tội cho Esméralda. Bị tra tấn tàn bạo, Esméralda đành nhận tội và bị kết án tử hình.
Sĩ quan Pheobus sau khi chết hụt, biết rằng Esméralda vô tội nhưng y vẫn làm ngơ. Người gù si tình Quasimodo đã dũng cảm liều mạng cứu thoát được người tình trong mộng của mình. Chính vì nhà thờ là nơi trú ẩn, mọi luật pháp của con người đều mất hiệu lực trước ngưỡng cửa nhà thờ nên Quasimodo đã đưa cô gái tới đây. Quasimodo đã đặt Esmeralda vào đấy. Quasimodo càng si mê, luôn đem mọi cách tốt đẹp nhất để lắng nghe chia sẻ từ cô, giúp cô hồi phục tinh thần và bảo vệ cô. Một sáng, tia nắng mặt trời tươi vui lọt qua cửa sổ tò vò rọi vào mặt cô, cô thấy một cái gì làm cô khiếp sợ: Khuôn mặt khốn khổ của Quasimodo. Vẫn nhắm mắt, cô nghe thấy tiếng nói rất dịu dàng của một giọng cục cằn: – “Đừng sợ. Tôi là bạn cô. Tôi đến xem cô ngủ. Nhìn cô ngủ, điều đó chẳng có gì là không tốt với cô, phải không? Tôi đứng đây, khi cô nhắm mắt ngủ thì có sao không? Có hại gì cho cô không? Bây giờ tôi đi đây. Tôi đứng phía sau tường. Cô có thể mở mắt ra”. Có cái gì đó hơn là ai oán trong những lời ấy. Đó chính là cái giọng cô từng thốt ra. Cô gái Ai Cập cảm động mở mắt. Phía cửa sổ tò vò y không còn đấy. Cô bước tới cửa sổ, trông thấy gã gù tội nghiệp nép vào góc tường, dáng bộ đau khổ, cam chịu. Cô cố gắng vượt lên cái ghê tởm của mình, lại đây, Quasimodo. Càng lúc, cô nhận ra thêm những dị dạng của Quasimodo. Mắt cô lướt nhìn từ cái đầu gối khoèo đến cái lưng gù, từ cái lưng gù đến con mắt chột. Tuy nhiên có một chút gì buồn bã và dịu dàng tỏa trên những cái đó làm cô bắt đầu quen dần. Hắn nói với cô, cũng như nói lên Nỗi bất hạnh của mình do là quá giống con người. Hắn ước chỉ muốn mình hoàn toàn là một con vật. Trông thấy bộ mặt xấu xí hiện ra bất ngờ giữa điệu hát, cô gái ngừng bặt với một cử chỉ sợ hãi vô thức. Gã kéo chuông khốn khổ quỳ gối trước ngưỡng cửa. Đôi lần, về ban đêm, cô nghe tiếng ai hát dưới những tấm lá chắn gió của gác chuông, như để ru cô ngủ, tiếng hát buồn và lạ lùng. Đó là những câu thơ không vần. Chỉ có một người điếc mới có thể làm như vậy. Một buổi sáng, thức dậy, cô thấy trên cửa sổ hai bình hoa nở tưng bừng. Suốt ngày cô ngồi vuốt ve con Djali và bóp vụn bánh mì cho chim én. Rồi cô hoàn toàn không trông, không nghe thấy Quasimodo nữa. Gã kéo chuông tội nghiệp dường như biến khỏi nhà thờ – nhưng đó chính là Quasimodo, ngủ trên đá, như để canh gác cho cô gái ngủ.
Nhưng cuối cùng, chính giáo sĩ Frollo tố cáo cho viên sĩ quan Pheobus bắt lại đựơc Esméraida. Nàng bị treo cổ. Quasimodo tuyệt vọng, giết chết cha nuôi là giáo sĩ Frollo rồi tìm đến hầm mộ, tự sát bên cạnh thi thể của Esméralda.
Truyện Nhà nhờ Đức bà Paris và Thằng gù nhà thờ Đức bà đều xoay theo tình yêu của Quasimodo dành cho Esmeralda, tình yêu vô bờ bến, thứ tình cảm chân thành, mộc mạc, giản đơn từ chính trái tim đến trái tim, lay động lòng người. Xứng đáng là một câu chuyện về tình yêu bao dung, trường tồn với thời gian của Victor Huygo.